Tình trạng phổ cập EMR, EHR và PHR của các quốc gia phát triển trên thế giới
- 31/10/2021
- 1756
Chỉ tiêu quan trọng để đánh giá cơ sở hạ tầng y tế số của một quốc gia là tỉ lệ phổ cập hệ thống bệnh án điện tử EMR - Electronic Medical Record tại các cơ sở y tế, sự kết nối dữ liệu y tế, sức khỏe, xây dựng cơ sở dữ liệu chung EHR - Electronic Health Record và tỉ lệ ứng dụng hệ thống quản lý sức khỏe cá nhân PHR - Personal Health Record.
Nhìn vào bảng kết quả khảo sát tình hình phổ cập EMR, EHR, PHR của các quốc gia phát triển, chúng ta có thể thấy được các yếu tố tác động lớn đến xây dựng và phát triển hạ tầng y tế số quốc gia và từ đó rút ra được một số cách làm và bài học thực tiễn.
1, Sự đầu tư của chính phủ cho y tế số thông qua nguồn thuế và bảo hiểm xã hội
Đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho việc xây dựng nền tảng y tế số quốc gia từ cơ chế chính sách, xây dựng phát triển hệ thống đến vận hành. Tất cả các quốc gia trong khảo sát đều sử dụng nguồn vốn từ thuế hoặc bảo hiểm xã hội để thực hiện.
2, Cơ chế dịch vụ bác sĩ gia đình
Hầu hết các quốc gia đều sử dụng mô hình primary care với hệ thống bác sĩ gia đình. Chính cơ chế này thúc đẩy phát triển nền tảng y tế số do nhu cầu chia sẻ dữ liệu y tế và sức khỏe. Bác sĩ gia đình cần truy cập thông tin sức khỏe thân chủ của mình ở mọi nơi cũng như cần chia sẻ dữ liệu đó đến các cơ sở y tế khi thân chủ của họ cần sự giúp đỡ.
3, Lợi thế dân số và TOP DOWN
Các quốc gia có dân số ít có lợi thế hơn về quy mô triển khai. Hình thức tổ chức TOP - DOWN một hệ thống xuyên suốt giúp cho việc thực hiện được nhanh và dễ dàng hơn. Các dịch vụ của các công ty tư nhân thì tập trung vào app kết nối với EHR quốc gia và hướng tới từng nghiệp vụ khám, chữa bệnh cụ thể.
4, Sự phối hợp của pháp chế và cơ chế incentive
Nhiều quốc gia sử dụng pháp chế mạnh mẽ để quy định việc đẩy dữ liệu từ EMR lên CSDL tập trung của hệ thống EHR. Nếu trong thời gian quy định dữ liệu khám bệnh, dữ liệu thuốc..không được đẩy lên thì sẽ bị phạt. Mỹ thì áp dụng cơ chế incentive để tăng tỉ lệ phổ cập EMR, trả nhiều hơn cho các cơ sở y tế nếu ứng dụng hệ thống bệnh án điện tử. Nhật Bản cũng đang xem xét cả hai phương án để tăng tỉ lệ phổ cập EMR.
Bảng khảo sát tình trạng phổ cập EMR, EHR và PHR của một số quốc gia phát triển:
1, Estonia
. Dân số: 1.32 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~100%
. Đã có hệ thống EHR, truy cập và chia sẻ thông tin qua ID công dân
. Đơn vị phát triển, vận hành: Trung tâm Hệ thống Thông tin Y tế và Phúc lợi
(Được thành lập bởi Bộ Y tế, các tổ chức y tế, hiệp hội y tế,...)
. Nguồn tiền thực hiện: thuế
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
Tỷ lệ phổ biến bệnh án điện tử xấp xỉ 100%. Estonia đã xây dựng hệ thống cấp quốc gia cho phép các nhân viên y tế và bệnh nhân xem các thông tin về dị ứng, bệnh mãn tính, tiền sử khám bệnh, các chẩn đoán hình ảnh và đơn thuốc,... (Dịch vụ Y tế điện tử). Công dân trên 15 tuổi có thẻ ID công dân (thẻ mã số định danh cá nhân), có thể dùng thẻ này thay cho thẻ căn cước, thẻ bảo hiểm y tế, bằng lái xe, hộ chiếu. Với thẻ ID này hoặc Mobile ID, khi đăng nhập vào trang cổng thông tin bệnh nhân, người dân có thể kiểm tra thông tin y tế của mình, cũng như đặt lịch hẹn khám bệnh, đăng ký hiến tạng, đồng thời cũng có thể kiểm soát quyền truy cập, chẳng hạn như cài đặt những người có quyền xem.
2, Thuỵ Điển
. Dân số: 10.22 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~100%
. Đã có hệ thống EHR, truy cập và chia sẻ thông tin qua ID ngân hàng (eID)
. Đơn vị phát triển, vận hành: Cục Y tế điện tử (Cơ quan chính phủ)
. Nguồn tiền thực hiện: thuế
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
Tỷ lệ phổ biến bệnh án điện tử xấp xỉ 100%. bệnh án điện tử và mạng lưới y tế được thiết lập ở đơn vị cấp địa phương, đồng thời hệ thống liên kết thông tin y tế ở cấp quốc gia cũng được xúc tiến phát triển. Khi truy cập thông tin y tế của bệnh nhân, thẻ ID chuyên dùng cho nhân viên y tế được dùng để xác thực người truy cập. Bệnh nhân đăng nhập trang cổng thông tin y tế bằng BankID (eID do ngân hàng cấp) nhiều hơn so với mã số định danh cá nhân do Cơ quan thuế quốc gia cấp.
3, Đan Mạch
. Dân số: 5.81 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~100%
. Đã có hệ thống EHR, truy cập và chia sẻ thông tin qua ID CPR
. Đơn vị phát triển, vận hành: MedCom (Điều hành bởi Bộ Y tế và chính quyền địa phương)
. Nguồn tiền thực hiện: thuế
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
Tỷ lệ phổ biến bệnh án điện tử xấp xỉ 100%. bệnh án điện tử và mạng lưới y tế được thiết lập ở đơn vị cấp địa phương, đồng thời hệ thống liên kết thông tin y tế ở cấp quốc gia cũng được xúc tiến phát triển. Khi truy cập thông tin y tế của bệnh nhân, thẻ ID chuyên dùng cho nhân viên y tế được dùng để xác thực người truy cập. Bệnh nhân đăng nhập trang cổng thông tin y tế bằng BankID (eID do ngân hàng cấp) nhiều hơn so với mã số định danh cá nhân do Cơ quan thuế quốc gia cấp.
4, Nauy
. Dân số: 5.32 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~100%
. Đã có hệ thống EHR, truy cập và chia sẻ thông tin
. Đơn vị phát triển, vận hành: Tổng cục Y tế điện tử (Trực thuộc Bộ Y tế)
. Nguồn tiền thực hiện: thuế
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
Tỷ lệ phổ biến bệnh án điện tử xấp xỉ 100%. Hệ thống cấp quốc gia (Mạng lưới Y tế Na Uy) được thiết lập giúp chia sẻ các thông tin như giấy chuyển viện, bản tóm tắt xuất viện, kết quả xét nghiệm, đơn thuốc điện tử,..giữa các nhân viên y tế. Na Uy cũng xây dựng cổng thông tin dành cho người dân.
5, Phần Lan
. Dân số:5.51 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~100%
. Đã có hệ thống EHR, truy cập và chia sẻ thông tin qua ID CPR
. Đơn vị phát triển, vận hành: Kela (Cục Bảo hiểm xã hội)
. Nguồn tiền thực hiện: thuế
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
Tỷ lệ phổ biến bệnh án điện tử xấp xỉ 100%. Phần Lan đang xây dựng EHR có tên "Kanta" có thể lưu trữ thông tin về EHR ở cấp độ khu vực và chia sẻ thông tin ở cấp độ quốc gia. Hệ thống này bao gồm các thông tin như đơn thuốc điện tử, cơ sở dữ liệu thuốc, kho dữ liệu bệnh nhân,... và hoạt động bằng mã số bảo hiểm xã hội được cấp cho mọi công dân. Vào thời điểm cuối năm 2018, có khoảng 2,8 triệu người (trên tổng dân số khoảng 5,5 triệu) sử dụng My Kanta (cổng thông tin bệnh nhân). Người dùng có thể kiểm tra thông tin y tế của bản thân mình, theo dõi đơn thuốc và đăng ký hiến tạng. Ngoài ra Phần Lan cũng đang xây dựng một cơ chế cho phép chia sẻ các chỉ số về trạng thái cơ thể và thông tin sức khỏe của bệnh nhân.
6, Anh Quốc
. Dân số:66.44 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~100%
. Đã có hệ thống EHR, truy cập và chia sẻ thông tin
. Đơn vị phát triển, vận hành: NHS Digital (Cơ quan độc lập do Bộ Y tế thành lập)
. Nguồn tiền thực hiện: thuế
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
Tỷ lệ sử dụng bệnh án điện tử đạt ~100%. Anh đã xây dựng mạng lưới thông tin (N3) với chủ đạo là NHS (Dịch vụ Y tế Quốc gia) giúp chia sẻ dữ liệu bệnh nhân ở cấp độ quốc gia. Bệnh nhân được cấp mã số NHS. N3 chuyển đổi sang HSCN (Mạng lưới chăm sóc sức khỏe và xã hội). NHS cũng tích cực áp dụng PHR, khoảng 90% bác sĩ gia đình có thể xem thông tin bệnh nhân trực tuyến (cần đăng ký từ phía bệnh nhân). Bệnh nhân có thể sử dụng các dịch vụ như đăng ký dịch vụ bác sĩ gia đình, đặt lịch khám và kiểm tra lịch sử, yêu cầu cấp lại đơn thuốc và đăng ký hiến tạng trực tuyến. Ngoài ra bệnh nhân còn có thể kiểm soát truy cập chẳng hạn như chỉ định người có quyền xem.
7, Hà Lan
. Dân số:17.38 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~100%
. Đã có hệ thống EHR, truy cập và chia sẻ thông tin
. Đơn vị phát triển, vận hành: VZVZ (Bao gồm các đoàn thể thuộc nhiều ngành nghề như bệnh viện, công ty bảo hiểm, hiệu thuốc và nhà cung cấp CNTT)
. Nguồn tiền thực hiện: Bảo hiểm xã hội (Bảo hiểm tư nhân được cung cấp theo quy định quốc gia)
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
Tỷ lệ phổ biến bệnh án điện tử xấp xỉ 100%. Nền tảng trao đổi thông tin y tế LSP đã được hoàn thành (sự tham gia của chính phủ còn hạn chế, chủ yếu được xây dựng bởi các đoàn thể thuộc nhiều ngành). Dự án MedMij - dự án hợp tác giữa chính phủ và doanh nghiệp tư nhân - đã được triển khai nhằm cải thiện hệ thống PHR. Hệ thống cho phép người dùng dễ dàng xem dữ liệu y tế của bản thân được lưu trữ trong bệnh viện và dữ liệu của các thiết bị đeo cá nhân từ nền tảng PHR của nhà cung cấp ICT tùy chọn đang được tiến hành. Ngoài thông số kỹ thuật, các cuộc thảo luận về các tính năng như khả năng tương tác,... đang được tiến hành rộng rãi.
7, Đức
. Dân số:83.15 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~90%
. Chưa có hệ thống EHR nhưng Đức đang rất tích cực thực hiện và sẽ sớm hoàn thành trong tương lai gần
. Đơn vị phát triển, vận hành: Bộ Y tế Liên bang
. Nguồn tiền thực hiện: Bảo hiểm xã hội (Bảo hiểm công cộng/tư nhân)
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
90% các cơ sở y tế tư nhân đã thực hiện số hóa việc thanh toán và khám bệnh. Đức đang cố gắng thúc đẩy số hóa trong các lĩnh vực y tế, sức khỏe và thiết lập EHR cấp quốc gia. Việc cấp phát thẻ y tế điện tử (eGK), thay thế thẻ bảo hiểm y tế thông thường IC cho người dân, đã gần như hoàn thành. Tên, ngày sinh, địa chỉ và số thẻ bảo hiểm của người dùng được lưu trữ trong eGK và người dùng có thể đăng nhập vào EHR bằng thẻ này, kiểm tra thông tin y tế của mình, đặt lịch khám bệnh và đăng ký hiến tạng.
8, Pháp
. Dân số: 66.99 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~90%
. Chưa có hệ thống EHR chính thống nhưng Pháp đưa hệ thống DMP vào sử dụng như là EHR
. Đơn vị phát triển, vận hành: CNAMTS (Quỹ bảo hiểm quốc gia Pháp)
. Nguồn tiền thực hiện: Bảo hiểm xã hội
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
Tỷ lệ phổ biến của bệnh án điện tử là khoảng 70%. DMP (Dossier Médical Partagé: hệ thống chia sẻ thông tin bệnh nhân) đã được Pháp đưa vào áp dụng với vai trò như EHR. Các tổ chức y tế nước này không thể kết nối với nhau do thiếu định dạng chung cho bệnh án điện tử. Tuy nhiên, nhờ áp dụng DMP, nơi lưu trữ dữ liệu sức khỏe của mỗi bệnh nhân đã được chia sẻ một cách có hệ thống. Bên cạnh đó, bệnh nhân không chỉ có thể xem lịch sử điều trị bệnh, kết quả xét nghiệm,… mà còn có thể đặt lịch khám và đăng ký hiến tạng.
9, Canada
. Dân số: 37.89 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~85%, tỉ lệ thấp hơn nhiều ở những bệnh viện nhỏ, phòng khám nhỏ
. Chưa có hệ thống EHR toàn quốc. Canada thúc đẩy phát triển EHR theo các bang, sau đó tích hợp liên bang
. Đơn vị phát triển, vận hành: Canada Health Infoway (Tổ chức phi lợi nhuận do Liên bang tài trợ)
. Nguồn tiền thực hiện: Thuế
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: có
Về sự hợp tác với các tổ chức y tế, trước tiên Canada đang tạo ra một EHR cho từng tiểu bang và đẩy mạnh việc kết nối giữa các tiểu bang đó. Mỗi bang có tiến độ triển khai khác nhau, riêng bang Ontario đang tiến hành thiết lập 14 mạng lưới chăm sóc sức khỏe khu vực (LHIN) tích hợp trong bang để thúc đẩy sự hợp tác với các tổ chức y tế và trung tâm chăm sóc cộng đồng. Nhờ đó, bệnh nhân và gia đình họ cũng có thể tiếp cận thông tin. (Bang Alberta cũng thiết lập một cơ chế như vậy). Việc kê đơn điện tử cũng ngày càng trở nên phổ biến. Khoảng 85% bác sĩ gia đình sử dụng bệnh án điện tử.
10, Mỹ
. Dân số: 320 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~75%
. Chưa có hệ thống EHR toàn quốc
. Đơn vị phát triển, vận hành: Đóng góp của chính phủ, doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức, đoàn thể
. Nguồn tiền thực hiện: Tổ chức bảo hiểm tư nhân (Bảo hiểm y tế công cộng là Medicaid)
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: Quy định trong hợp đồng với công ty bảo hiểm
Từ năm 2011, Mỹ đã đưa vào áp dụng một cơ chế khuyến khích các cơ sở y tế đẩy mạnh việc phổ biến bệnh án điện tử. Các cơ sở y tế phải đáp ứng các tiêu chí để được hưởng ưu đãi trong thời gian mục tiêu của từng giai đoạn. Các biện pháp hỗ trợ này đã làm tăng tỷ lệ phổ biến của bệnh án điện tử (khoảng 75% phòng khám tư sử dụng vào năm 2014). Đơn cử như PHR có một cơ chế gọi là Blue Button (Nút xanh) cho phép người dùng kiểm tra thông tin sức khỏe cá nhân trực tuyến.
11, Australia
. Dân số: 24.99 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~90%
. Chưa có hệ thống EHR toàn quốc
. Đơn vị phát triển, vận hành: Cơ quan Y tế Kỹ thuật số (Cơ quan chính phủ)
. Nguồn tiền thực hiện: Thuế
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: Có
Giống như New Zealand, tỷ lệ phổ biến bệnh án điện tử nước này cũng cao ở mức 90%. Cơ quan Y tế Kỹ thuật số phụ trách vấn đề này cho rằng đến năm 2022, bệnh án điện tử sẽ cung cấp nền tảng thông tin y tế giúp người dùng có thể truy cập một cách an toàn, dễ dàng sử dụng và chia sẻ một cách hiệu quả. Liên quan đến PHR, Australia cũng có "My Health Record" (hệ thống cho phép bệnh nhân nắm bắt thông tin y tế suốt đời của họ theo trình tự thời gian) và khoảng 90% người dân nước này đã tham gia.
12, Singapore
. Dân số: 5.64 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: không có thông tin nhưng được cho là ở mức cao
. Đang cố gắng triển khai hệ thống EHR toàn quốc NEHR)
. Đơn vị phát triển, vận hành: IHiS (Tổ chức quản lý CNTT thuộc Bộ Y tế)
. Nguồn tiền thực hiện: Quỹ dự phòng Trung ương (Nhà nước và nhân dân đóng góp)
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: Có
Tỷ lệ phổ biến bệnh án điện tử cũng ở mức cao. Chính phủ đã và đang thiết lập cơ chế "Một bệnh nhân, một hồ sơ sức khỏe", đồng thời thúc đẩy chương trình Hồ sơ Sức khỏe Quốc gia (NEHR) với vai trò như EHR. Ngoài ra còn có một cổng thông tin bệnh nhân "Health Hub" cho phép bệnh nhân truy cập hồ sơ y tế của mình.
12, New Zealand
. Dân số: 4.95 triệu
. Tỉ lệ phổ cập EMR: ~90%
. Đã có hệ thống EHR quốc gia và đang cố gắng phổ biến
. Đơn vị phát triển, vận hành: Bộ Y tế
. Nguồn tiền thực hiện: Thuế
. Dịch vụ bác sĩ gia đình: Có
Tỷ lệ phổ biến bệnh án điện tử ở mức cao (trên 90%). Chính phủ đã và đang nỗ lực phổ biến EHR và đạt được những bước tiến vững chắc.
Để tạo ra một hệ thống EHR trên toàn quốc và cho phép bệnh nhân truy cập vào đó, nước này đang tiến hành theo Khung chiến lược y tế số do Bộ Y tế công bố.